Một Nghiên Cứu Về Các Nguyên Tắc Nhận Thức Của Con Người

  • Một Nghiên Cứu Về Các Nguyên Tắc Nhận Thức Của Con Người


Tác giả

George Berkeley (1685 – 1753), một trong những triết gia quan trọng nhất của nền triết học Tây phương hiện đại thời kỳ đầu. Tinh thần triết học của ông được gói gọn trong câu cách ngôn (esse est percipi) (tồn tại là được tri giác). Các công trình chính của ông: Thử hướng đến một lí thuyết mới về cái nhìn (1709), Ba cuộc đối thoại giữa Hylas và Philomous (1713), Bàn về sự vận động (1721), Alciphone (1732), Nhà giải tích hay bài luận gửi cho một nhà toán học vô tín ngưỡng (1734), Bảo vệ tự do tư tưởng trong toán học (1735), v.v...

Lời người dịch

George Berkeley (1685-1753) là triết gia duy nghiệm kiệt xuất người Ireland, một trong những gương mặt quan trọng nhất của nền triết học Tây phương hiện đại thời kì đầu. Lập trường triết học của Berkeley là duy tâm thường nghiệm (empirical idealism), được thể hiện trong câu cách ngôn nổi tiếng “esse est percipi” (tồn tại là được tri giác). Đối với ông, không có gì hiện hữu ngoại trừ các ý niệm và các tinh thần; các ý niệm là cái được tri giác, còn tinh thần (mind hay spirit)1 là cái tri giác những cái được tri giác. Các công trình của Berkeley trải rộng trên các lĩnh vực khoa học, triết học và thần học; riêng trong lĩnh vực triết học thì Một nghiên cứu về các nguyên tắc nhận thức của con người (1710) và Ba cuộc đối thoại giữa Hylas và Philonous (1713) là hai công trình được biết đến nhiều nhất.

Vài nét tiểu sử và sự nghiệp của Berkeley

Berkeley chào đời vào ngày 12 tháng Ba năm 1685 ở Hạt Kilkenny, Ireland. Năm 11 tuổi, ông vào học trường Kilkenny ở Dublin. Năm 15 tuổi, ông bước chân vào Học viện Ba ngôi (Trinity College), cũng ở Dubin. Berkeley lấy bằng cử nhân tại đây vào năm 1704, đến năm 1707 lấy bằng Thạc sĩ và được tuyển làm giảng viên (Junior Fellow) của học viện này.

Năm 1709, Berkeley được thụ phong chức chấp sự (deacon) trong giáo phái Anh và xuất bản công trình chính đầu tiên của mình Thử hướng đến một lí thuyết mới về cái nhìn. Trong công trình này, Berkeley bàn về những giới hạn của cái nhìn của con người và đưa ra quan niệm rằng đối tượng thực sự của thị giác không phải là các đối tượng vật chất mà là ánh sáng và màu sắc. Những luận điểm được nêu ra trong công trình này báo hiệu sự ra đời của các công trình triết học quan trọng nhất của ông.

Vào năm 1710, khi chỉ mới 25 tuổi, Berkeley xuất bản công trình triết học Một nghiên cứu về các nguyên tắc nhận thức của con người - Phần I, từ đây chúng tôi sẽ nói gọn là Các nguyên tắc. Công trình này là những nỗ lực của Berkeley gắng tìm cách bác bỏ những yêu sách của John Locke, một triết gia duy nghiệm thuộc thế hệ trước ông, về bản chất của tri giác con người. Nhưng vì công trình này thuộc dạng kén độc giả, chỉ dành riêng cho giới trí thức ở thủ đô London, nên ông bắt tay viết những bài dễ đọc hơn, trong hình thức đối thoại, và cho xuất bản ở London vào năm 1713 dưới nhan đề Ba cuộc đối thoại giữa Hylas và Philonous.

Trong thời gian ở London, để xúc tiến việc xuất bản các công trình triết học của mình, ông kết giao bằng hữu với một số nhà trí thức nổi danh thời bấy giờ như nhà thơ Jonathan Swift (1667-1745), nhà thơ, nhà tiểu luận Joseph Addison (1672-1719), nhà soạn kịch Richard Steele (1709-1729), và nhà thơ Alexander Pope (1688-1744). Ông tham gia viết bài cho tờ Guardian của Steele để chống lại tư tưởng tự do của thuyết bất khả tri lúc bấy giờ, nhưng do ông không kí tên vào các bài báo này nên cho đến nay các ý kiến về việc ông có phải là tác giả của chúng hay không vẫn còn bất đồng.

Năm 1721, ông xuất bản cuốn Bàn về sự vận động, một luận văn ngắn bàn về những nền tảng triết học của cơ học. Ngoài ra, ông còn có một tập các bản ghi chép những nhận xét triết học trong suốt quá trình phát triển học thuyết duy tâm và thuyết phi vật chất của mình; và tập ghi chép này, thường được gọi là Những nhận xét triết học, ông chỉ viết cho riêng mình nên không có ý định công bố.

Năm 1724, Berkeley được bổ nhiệm làm Trưởng Tu viện Derry. Lúc này, ông bắt tay khai triển dự án xây dựng một trường học ở Bermuda với ý nghĩ châu Âu đã trở nên già cỗi sau cuộc khủng hoảng “Bong bóng Biển Nam’’ (South Sea Bubble) và Thế giới Mới sẽ là niềm hi vọng cho tương lai con người. Được Nghị viện Anh hứa tài trợ kinh phí, ông dong buồm sang châu Mỹ vào năm 1728. Sau ba năm hoài công ngồi chờ kinh phí được hứa hẹn, ông trở về Anh. Trong thời gian ở châu Mỹ, ông đã soạn thảo Alciphron, cũng là một công trình triết học và là một suối nguồn quan trọng cho các quan niệm của ông về ngôn ngữ. Sau khi về Anh, Berkeley tập trung viết và cho xuất bản một loạt các công trình: Bài giảng trước Hội Truyền giáo Phúc âm ở nước ngoài (1732), Lí thuyết về cái nhìn (chứng minh và giải thích) (1733), Nhà giải tích hay bài luận gửi cho một nhà toán học vô tín ngưỡng (1734), Bảo vệ tự do tư tưởng trong toán học (1735), Các lí do không đáp lại câu trả lời đầy đủ của ngài Walton (1735), cũng như xem xét lại để tái bản Các nguyên tắc và Ba cuộc đối thoại (1734).

Năm 1734, Berkeley được phong Giám mục xứ Cloyne, vì thế ông trở lại Ireland và sống tại đó, tập trung chăm lo cho giáo phận của mình. Năm 1752, ông rời xứ cloyne đi Oxford để giám sát việc học hành của con trai, và không lâu sau đó, ông tạ thế vào ngày 14 tháng Giêng, được chôn cất trong Thánh đường Giáo hội Kitô thuộc địa phận Oxford.

Bối cảnh triết học cho sự ra đời công trình Các nguyên tắc

Theo Howard Robinson(2), cùng với Ba cuộc đối thoại giữa Hylas và Philonus, công trình Các nguyên tắc được Berkeley viết trong nỗ lực chống lại “triết học mới” của thế kỷ 17. Phát ngôn viên của triết học mới này là các nhà khoa học và các triết gia tiêu biểu như René Descartes (1596–1650), (Issac Newton (1642-1727), John Locke (1632-1704), Malebranche (1638-1715), Galileo (1564-1642), và Boyle (1627-91); trong số các phát ngôn viên triết học này, John Locke là nhân vật chiếm nhiều mối ưu tư của Berkeley nhất.

Liên quan tới vấn đề về bản tính của thực tại, các nhà triết-khoa học gia này, tiêu biểu là John Locke, phân biệt hai loại tính chất: các tính chất hạng nhất (primary qualities) và các tính chất hạng hai (secondary qualities). Loại tính chất thứ nhất là những thuộc tính tự tồn nơi sự vật, như “quảng tính, hình dạng, sự vận động, đứng im, tính rắn hay tính không thể thâm nhập được, và con số” (I, §9), còn loại tính chất thứ hai, như “màu sắc, âm thanh, mùi, vị” (I, §9)(3), thì không thể tự tồn mà phụ thuộc vào các giác quan – màu sắc là do mắt ta nhìn thấy, âm thanh là do tai ta nghe được, v.v.., tức là những thuộc tính chỉ nảy sinh ở trong ta, là những gì thuộc về chủ quan trong đầu óc ta chứ không phải khách quan nơi sự vật hay “vật chất”. Từ đó, họ đi đến chỗ cho rằng thực tại chỉ gồm các tính chất hạng nhất chứ không phải các tính chất hạng hai. Song có điều là, ngoài cái thế giới như nó đang là, đối tượng nghiên cứu của các nhà khoa học, thực tại ta đang sống còn bao gồm một thế giới khác: thế giới như ta kinh nghiệm về nó. Do đó, chắc chắn ta không thể kinh nghiệm về thế giới nếu không có các tính chất hạng hai.

Chúng ta thường quen nghĩ “ý niệm” (idea) là một sản phẩm tác tạo của trí năng, rất gần với nghĩa của chữ “khái niệm” (concept). Nhưng đối với Locke, khi đề xuất thuật ngữ này, ông định nghĩa nó là “bất cứ cái gì là đối tượng của giác tính khi ta suy tưởng” (1.1.8)(4). Theo định nghĩa ấy thì “ý niệm” là thuật ngữ không những dùng để chỉ các khái niệm mà còn dùng để chỉ tất cả các hiện tượng khả giác của ý thức nữa, nói cách khác là bất kỳ cái gì có thể là đối tượng của tư tưởng. Triết học truyền thống Aristoteles và kinh viện phân biệt hai loại đối tượng của tinh thần: loại này là các “mô thức” (forms) hay các “giống” (species), vốn là đối tượng của trí năng hay tư tưởng, và loại kia là các “ảnh ảo” (phantasms), đối tượng của tri giác cảm tính; loại này là những cái phổ quát, loại kia là những hình ảnh cảm tính đặc thù. Locke tiếp thu cả hai loại này và thuật ngữ ý niệm của ông được áp dụng cho cả hai nhóm đối tượng ấy.

Nếu như trong trong hoạt động nhận thức, ta chỉ có thể ý thức trực tiếp về các ý niệm ở trong tinh thần ta, chứ không phải các sự vật khách quan bên ngoài thì hệ luận sẽ dẫn tới chỗ ta buộc phải phủ định sự hiện hữu của thế giới bên ngoài. Để làm điều này, Descartes nêu ra giả thuyết về một tinh quỷ (mauvais génie) “dùng hết tài trí của nó để lường gạt tôi”(5). Nếu mọi việc quả đúng như thế, thì những gì tôi kinh nghiệm được rất có thể là kết quả của những trò chơi khăm của tinh quỷ rất mực xảo trá này. Nhưng rồi ông lại cố gắng bác bỏ giả thuyết hoài nghi luận này bằng cách chứng minh sự hiện hữu của một Thượng đế chân thực (vrai Dieu), không đánh lừa ta và cũng không để ta bị đánh lừa. Nhưng cách Descartes chứng minh sự hiện hữu của Thượng đế tỏ ra thiếu sức thuyết phục, khó lòng được mọi người chấp nhận, kể cả những người theo thuyết hữu thần. Cách phản ứng của Locke trước thuyết hoài nghi này cũng không mấy hữu dụng, vì cũng chẳng mấy khi ông đưa ra được cách luận cứ chống lại nhà hoài nghi. Cho dù không một nhân vật chủ đạo nào của triết học thế kỷ 17 là người theo thuyết hoài nghi, nhưng nền triết học mới luôn bị đánh giá thấp vì không có một luận cứ phản bác thuyết hoài nghi nào cho thật thuyết phục.

Gắn liền với sự lo sợ thuyết hoài nghi là sự lo sợ thuyết duy vật và thuyết vô thần. Quan niệm cơ giới luận về thế giới tự nhiên làm cho nền triết học thế kỷ 17 khó lòng hiểu được các thực thể tinh thần, như linh hồn hay Thượng đế, quan hệ với thế giới tự nhiên như thế nào, cụ thể là nó khó lòng hiểu được mối tương tác nhân quả giữa bản thể vật chất và bản thể phi vật chất có thể diễn ra như thế nào. Descartes cố gắng mang lại chút thanh danh khoa học cho quan niệm cơ giới luận về mối quan hệ giữa tinh thần và thể xác bằng cách cho rằng mối quan hệ ấy diễn ra ở một bộ phận của não bộ, cụ thể là ở tuyến tùng, nhưng cũng chẳng giải quyết được vấn đề. Và chính vì quan niệm cơ giới luận về thể xác có nguy cơ làm triệt tiêu tác dụng của cái tinh thần phi vật chất, nên các định luật tất định luận của Newton về vận động đẩy Thượng đế ra bên ngoài vũ trụ. Các nhà hữu thần luận, trong đó có Berkeley, phản ứng chống lại quan niệm này bằng lý luận cho rằng chính Thượng đế đã đặt thế giới vào trong sự vận động, rồi sau đó nó vận động mà không cần tới sự nâng đỡ hay can thiệp của Ngài.

Trước bối cảnh tư tưởng nói trên, Berkeley cảm thấy không thể đứng ngoài cuộc, mà buộc phải tham gia vào cuộc tranh luận tư tưởng của thời đại, do đó đã cho xuất bản công trình Các nguyên tắc (1710) với mục đích chính, như lời ông tuyên bố, là “nghiên cứu về những nguyên nhân chủ yếu gây ra sự sai lầm và khó khăn trong các môn khoa học, cùng với những cơ sở của thuyết Hoài nghi, thuyết Vô thần và phi-tôn giáo”, qua đó xây dựng và bảo vệ học thuyết phi vật chất của mình.

Nội dung chính của công trình Các nguyên tắc

Về đại thể, cấu trúc của công trình Các nguyên tắc gồm hai phần: Dẫn nhập  (gồm 25 tiểu đoạn) và Phần I (gồm 156 tiểu đoạn)(6).

Trong phần Dẫn nhập, Berkeley chủ yếu tập trung phê phán học thuyết của Locke về các ý niệm trừu tượng như là một nguyên tắc sai lầm cơ bản đã “đưa toàn bộ sự nghi ngờ, sự không chắc chắn, những sự phi lý và những mâu thuẫn ấy vào trong một vài trường phái triết học” (§1). Đối với Locke, và nhiều triết gia khác, trí óc hay tinh thần “có năng lực tạo ra những ý niệm trừu tượng” (§6) bằng cách thực hiện thao tác tách biệt trong tư tưởng các yếu tố hay các thuộc tính của các sự vật cá biệt ra thành những cái cấu thành đơn giản để rút ra yếu tố hay thuộc tính mà các sự vật cá biệt đều có chung, tức những cái phổ biến. Berkeley công kích học thuyết này bằng luận điểm cho rằng thao tác trừu tượng hóa các ý niệm như thế là điều ta không thể làm được, và nguồn gốc của sai lầm ấy chính là quan điểm ngộ nhận về công dụng của ngôn ngữ: mục đích của ngôn ngữ là truyền đạt các ý niệm của ta và mọi tên gọi (names) có nghĩa đều biểu thị một ý niệm trừu tượng. Đối với Berkeley, ngôn ngữ chỉ biểu thị các ý niệm phổ biến (general ideas) chứ không biểu thị bất cứ một ý niệm trừu tượng nào. Do đó, phương cách để ta có thể đi đến chân lý và tránh mọi sai lầm là hãy “loại bỏ trở ngại và sự lừa dối của những từ ngữ ra khỏi những đệ nhất nguyên nhân của nhận thức” (§25).

Toàn bộ nội dung của phần I được Berkeley triển khai thành 156 tiểu đoạn một cách liền mạch nhau. Về sau, để giúp độc giả nắm bắt nội dung trình bày của Berkeley được dễ dàng hơn, các nhà biên tập các tác phẩm của Berkeley đã phân chia phần I thành các nhóm tiểu đoạn như sau: 1) Đối tượng và chủ thể của nhận thức (§§1-2); 2) Những luận cứ ủng hộ thuyết phi vật chất (§§3-33); 3) Những luận cứ phản bác và trả lời (§§34-84); và 4) Những hệ quả và áp dụng quan niệm của Berkeley (§§85-156).

Trước hết, trong nhóm tiểu đoạn đầu tiên, Berkeley xác định đối tượng và chủ thể của nhận thức con người. Các đối tượng của nhận thức là các ý niệm, và các ý niệm này gồm ba loại: “các ý niệm đã in sâu vào các giác quan”, “các ý niệm được ghi nhận khi lưu ý đến những xúc cảm của tâm hồm và những hoạt động của tinh thần”, và “các ý niệm được hình thành nhờ ký ức và trí tưởng tượng”. Chủ thể của nhận thức, theo Berkeley, không phải là những con người cá nhân (persons), mà là “tinh thần”, hay còn gọi bằng những cái tên khác là: “tâm trí”, “linh hồn” hay “bản ngã”. Đây là một thực thể tri giác năng động, hoàn toàn khác với ý niệm, là cái tri giác các ý niệm, là nơi để các ý niệm hiện hữu: “sự tồn tại của một ý niệm  là ở chỗ nó được tri giác”.

Từ chỗ xác định được đối tượng và chủ thể của nhận thức, Berkeley bắt đầu khai triển những luận cứ ủng hộ cho thuyết phi vật chất (immaterialism) của mình qua 30 tiểu đoạn tiếp theo.

Luận cứ xuất phát cho thuyết phi vật chất của Berkeley là “không có bất cứ bản thể nào khác ngoài tinh thần” (§7). Luận cứ này được nêu ra để phản bác lại học thuyết về ý niệm trừu tượng là học thuyết cho rằng mọi đối tượng khả giác là các tồn tại độc lập, hoàn toàn khác với các tồn tại được tri giác. Đối với Berkeley, lối phân biệt này tỏ ra không chính đáng ở chỗ sự trừu tượng hóa đã vượt ra khỏi phạm vi tác động của nó. Tôi chỉ có thể trừu tượng hóa một đối tượng nào đó trong chừng mực tôi nhận biết đối tượng ấy một cách biệt lập, chứ tôi không thể tách nó ra khỏi tri giác của tinh thần ở nơi tôi về chúng như là một thực thể tự tồn: “Mọi vật thể tạo nên cái cấu trúc vĩ đại của thế giới, đều không có một sự tự tồn nào ở bên ngoài một tinh thần” (§6). Như vậy, thế giới chỉ có một bản thể duy nhất là tinh thần, còn cái gọi là “vật chất” (matter) hay “cơ chất” (substratum) của các ý niệm không thể nào được coi là bản thể.

Theo Berkeley, vì các sự vật mà ta ý thức trực tiếp đều có các tính chất hạng hai và vì các tính chất ấy chỉ hiện hữu trong trong tinh thần, cho nên cái ta ý thức chính là “các ý niệm trong tinh thần”, chứ không phải là các đối tượng thuộc thế giới bên ngoài. Hơn nữa, căn cứ theo nguyên tắc về tính tương tự, chỉ có ý niệm mới giống với ý niệm, chứ không giống với bất cứ cái gì không thể tri giác được, ông suy ra rằng không có cái tương tự với ý niệm nào ở trong cái gọi là vật chất cả. Ông khẳng định: “Bất kỳ màu sắc hay quảng tính nào, hay bất kỳ tính chất khả giác nào đều tuyệt nhiên không thể tồn tại trong một chủ thể vô tư tưởng, bên ngoài tinh thần”. Về điểm này, rõ ràng Berkeley đang “đặt vấn đề” đối với thuyết duy vật, cụ thể là mấy vấn đề như sau: Một là, chính ý niệm về vật chất (hay bản thể hữu hình) là một ý niệm đầy mâu thuẫn, ở chỗ nó cho rằng các tính chất chỉ ở trong bản thể tinh thần lại có thể ở trong bản thể không phải tinh thần. Hai là, thuyết duy vật đang dẫn ta tới thuyết duy thực gián tiếp về tri giác, và từ đó dẫn tới thuyết hoài nghi. Các ý niệm tuy không thể tự tồn, nhưng chúng được các nhà duy vật giả định là bản sao của các hiện hữu độc lập với tinh thần (§15). Nhưng các đối tượng của giác quan biến đổi liên tục, trong khi đó các bản gốc của chúng lại được cho là bất biến, cho nên chúng không thể nào là bản sao trung thực các bản gốc của chúng được.(7) Ba là, khái niệm về vật chất là vô nghĩa (§17), bởi lẽ các khái niệm về bản thể và cơ chất, về cái nâng đỡ cho quảng tính là cái gì rất mơ hồ và trừu tượng đến mức không thể hiểu được.

Tiếp theo việc nêu luận cứ chủ đạo(8) rằng không thể có bất cứ đối tượng nào tồn tại ở bên ngoài tinh thần, vì những đối tượng như thế, về nguyên tắc, là không thể tri giác được, Berkeley tiến hành xem xét và đáp trả các luận cứ phản bác triết học học thuyết phi-vật chất (từ tiểu đoạn §34 đến tiểu đoạn §84). Sự đáp trả các luận cứ phản bác ấy cũng chính là những phát biểu của ông về học thuyết duy tâm của mình, về sau người ta gọi là thuyết duy tâm chủ quan (subjective idealism). Về đại thể, các luận cứ phản bác này có thể gom lại thành các nhóm chính: 1) luận cứ từ phía những người bình thường; 2) luận cứ từ phía các nhà khoa học; và 3) luận cứ từ phía tôn giáo.

Trước hết, với các luận cứ phản bác từ phía những người bình thường, Berkeley trả lời rằng hệ thống triết học của ông không phủ nhận sự tồn tại của bất cứ cái gì có thể tri giác, không phủ nhận những gì mắt thấy tai nghe, – chúng có tồn tại hay không thì cũng chẳng có chuyện trời rung đất chuyển nào hết miễn là chúng hãy làm ơn “ở trong tinh thần” giùm ông; điều ông phủ nhận là các nhà duy vật cứ khăng khăng về sự tồn tại của một bản thể không thể tri giác nào đó được gọi là “vật chất” hay “bản thể hữu hình” nâng đỡ cho các tồn tại có hình dạng, quảng tính, vận động, v.v.

Đối với các luận cứ phản bác từ phía khoa học, Berkeley trả lời rằng hệ thống triết học của ông không có hại gì cho khoa học cả, nếu lĩnh vực này được hiểu một cách đúng đắn. Công việc của khoa học không phải là đưa ra sự giải thích siêu hình học mà là phát biểu các quy luật vận hành quan sát được trong giới tự nhiên sao cho rõ ràng nhất. Vì thế thuyết duy tâm và thuyết phi vật chất của ông không những tương thích với sự thực hành khoa học đúng đắn, mà còn chúng còn thực sự hữu ích để khoa học loại trừ các khái niệm hàm hồ gây cản trở bước đường nhận thức của con người.

Cuối cùng là các luận cứ phản bác từ phía tôn giáo. Berkeley cho rằng dù ngôn ngữ của Kinh thánh có nói đến “vật chất” (các thực tại núi sông, cây cỏ, con người, v.v.,) nhưng không cùng cách hiểu với nhà duy vật về khái niệm ấy, tức vật chất là một cơ chất trơ ì không thể tri giác. Và do chỗ vai trò đích thực của ngôn ngữ là “biểu thị các quan niệm của chúng ta, hay các sự vật chỉ trong chừng mực chúng được ta nhận biết” (§83), nên nguyên tắc trình bày của ông không có gì mâu thuẫn với phép tắc của ngôn ngữ. Thêm nữa, các trường hợp về phép màu trong Kinh thánh (cây quyền trượng của Moise biến thành con rắn, nước biến thành rượu), học thuyết ấy không làm cho chúng mất linh nghiệm, bởi lẽ nó thừa nhận việc “cây quyền trượng đã biến thành con rắn” và “nước đã biến thành rượu” là có thật. Do đó, tương tự như đối với hai nhóm luận cứ nói trên, thì với nhóm luận cứ này, thuyết phi vật chất của ông không nguy hiểm như người ta lầm tưởng.

Sau khi trả lời các luận cứ phản bác có thể có từ nhiều phía khác nhau, Berkeley dành 49 tiểu đoạn tiếp theo, từ §85 đến §134, để xem xét những lợi ích mà học thuyết của ông có thể mang lại cho các hoạt động nhận thức của con người, cụ thể là đối với triết học, các môn khoa học và cả tôn giáo nữa.

Về đại thể, lợi ích mà học thuyết phi vật chất có thể mang lại cho triết học là ở chỗ nó loại bỏ hết các “câu hỏi khó và tối nghĩa mà người ta đã hoài công phí sức để suy xét” (§85), và một khi làm được điều đó thì thuyết hoài nghi cũng như thuyết vô thần sẽ không còn cơ sở nào để tồn tại, người ta sẽ tiết kiệm được nhiều công sức và thời gian trong việc tìm chân lý.

Đối với khoa học, những lợi ích mà học thuyết này mang lại được Berkeley xem xét ở “hai lĩnh vực lớn” là khoa học tự nhiên và toán học. Trong lĩnh vực khoa học tự nhiên, mục đích của ông là chống lại luận điểm của các nhà hoài nghi rằng bản chất thực của sự vật là cái gì ta không thể biết về nguyên tắc. Cơ sở của luận điểm này là cách giải thích khoa học của cơ học Newton. Quan điểm của Berkeley là về nguyên tắc bao giờ ta cũng lĩnh hội được cái bản chất thực của sự vật. Các nhà khoa học không nên cố công đi tìm nguyên nhân tác động trong giới tự nhiên, bởi lẽ các nguyên lý của cơ học không thể giúp ta giải thích được những quy luật cơ bản của tự nhiên như lực hút và sự cố kết của sự vật. Cách giải thích theo nguyên tắc “sự tương tự giữa các sự biến” ở các nhà khoa học rất dễ sa đà vào xu hướng tuyệt đối hóa, “biến nó thành định lý tổng quát”, do đó sẽ “gây thiệt hại nặng nề cho chân lý” (§106). Nguyên lý triết học của thuyết phi vật chất sẽ giúp cho các nhà khoa học nhận chân ra rằng sự tương tự lớn nhất của mọi sự biến là coi thế giới tự nhiên là công trình của một Tác nhân khôn ngoan và lòng lành, tức Thượng đế, và cách giải thích duy nhất đúng đắn các sự biến ấy là bằng những nguyên nhân tối hậu, chứ không phải những nguyên nhân tác động.

Các tiểu đoạn cuối cùng của Các nguyên tắc từ §135 đến §156, chủ đề Berkeley bàn là các tinh thần và Thượng đế. Vì tinh thần là “bản thể hay cái nâng đỡ duy nhất trong đó các tồn tại không-tư duy hay các ý niệm có thể hiện hữu” (§135), đồng thời, theo nguyên tắc về tính tương tự, chỉ có ý niệm mới tương tự với ý niệm, nên ta không thể tạo ra một ý niệm về tinh thần. Chúng ta chỉ có thể tạo ra một khái niệm về tinh thần mà thôi. Khái niệm khác với ý niệm ở chỗ nó không đưa ra một bức tranh chứa nội dung xác thực về sự vật được biểu thị, trái lại nó là kết quả của sự phản ánh giữa ý niệm của ta với những ý niệm trong tâm trí của người khác theo nguyên tắc tương tự.

Cứ cho là ta không có ý niệm về các tinh thần ở người khác, ta vẫn có thể suy ra được sự hiện hữu của các tinh thần ấy qua việc quan sát những biến đổi trong các ý niệm ta tri giác. Ta có thể rút ra được khái niệm về tinh thần từ việc ta quan sát bản ngã hay linh hồn của mình, rồi từ đó “thông qua linh hồn của mình mà ta biết được linh hồn của người khác” (§140). Sở dĩ ta làm được như vậy là nhờ có tác lực (agency) của Thượng đế, tác lực này hiện diện khắp nơi và cung cấp một hậu cảnh ổn định trên đó diễn ra mọi quan hệ nhân quả để ta có thế nắm bắt được tinh thần của những người khác. “Chỉ có mỗi mình Ngài là đấng, dùng lời quyền năng của mình mà nâng đỡ vạn vật, duy trì mối tương giao ấy giữa các tinh thần, qua đó các tinh thần có thể tri giác sự tồn tại của nhau” (§147).

Như vậy, toàn bộ dự án triết học của Berkeley được triển khai trong công trình Các nguyên tắc này là biện minh cho những chân lý trong Phúc âm về sự hiện hữu của Thượng đế như là bản thể đích thực của mọi tồn tại, mọi trật tự tự nhiên và như là nguồn suối của mọi nhận thức của con người. Vì thế, thuyết phi vật chất của ông không có nhiệm vụ nào khác ngoài việc đánh đổ mọi quan niệm lầm lạc về Thượng đế và khơi gợi nơi người đọc một “xúc cảm sùng kính về sự hiện diện của Thượng đế” để họ “biết tôn kính và hoài bão những chân lý bổ ích của Phúc âm” (§156).

Bản dịch tiếng Việt công trình Một nghiên cứu về các nguyên tắc nhận thức của con người của chúng tôi được dịch theo bản biên tập của Jonathan Dancy, thuộc loạt sách Các văn bản triết học Oxford, vốn là loạt sách hướng dẫn sinh viên lĩnh hội các công trình kinh điển trong triết học. Bản dịch tiếng Việt của chúng tôi có đến khoảng 100 chú thích về các từ ngữ và luận điểm của Berkeley, phần lớn trong số ấy là của Jonathan Dancy, còn những chú thích nào của chúng tôi thì được đánh dấu bằng ký hiệu: (ND). Ở chỗ nào trong nguyên bản có những câu văn phức tạp, có quá nhiều mệnh đề khiến cho độc giả ngày nay khó lòng nắm bắt được ý chính của câu văn, thì chúng tôi mạo muội cách các câu ấy ra thành nhiều câu cho dễ đọc. Những chỗ tách câu ấy chúng tôi đặt ký hiệu bằng một dấu chấm và một nét sổ dọc .|. Cuối cùng, đây là một văn bản triết học khó đọc, những lập luận trong sách được tổ chức rất tinh vi, sắc sảo bởi tài biện luận của một triết gia bậc thầy, trong khi đó năng lực của người dịch lại có hạn, nên khó lòng tránh khỏi sự sai sót. Chúng tôi mong bạn đọc góp ý để bản dịch được hoàn thiện hơn trong những lần in tiếp sau. Nhân đây, chúng tôi xin gửi lời tri ân đến nhà triết học Bùi Văn Nam Sơn, người đã dành nhiều thời gian hiệu đính bản thảo này. Chúng tôi cũng gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Thạc sĩ Cù Ngọc Phương (Đại học Nguyễn Tất Thành) và Biên tập viên Vũ Thu Hằng (Nxb. Tri thức) đã góp cho bản dịch những ý kiến quý báu.


    Viết đánh giá

        Bad           Good

    Sách cùng tác giả

    Sách cùng thể loại